Đá Onyx xuyên sáng là loại đá thuộc dòng đá thạch anh, kết hợp từ nước và quá trình phân rã của đá vôi, cùng với sự chuyển hóa liên tục trong lòng đất tạo thành một loại đá mới. Không giống như bất kỳ loại đá nào, Onyx có đặc tính mềm, có bề mặt trông như sáp, khả năng xuyên sáng và vẻ đẹp sang trọng. Onyx có thể được tìm thấy ở những dãy núi lớn có nhiều lớp màu sắc khác nhau…
1. Giới thiệu chung
Việc sử dụng đá xuyên sáng onyx trong trang trí nội ngoại thất đã được ghi nhận trong nhiều năm trước, khi các nhà thiết kế, nhà phân tích đã khám phá ra những hiệu ứng thú vị được thực hiện khi sử dụng vật liệu xinh đẹp này. Các màu sắc nổi bật trong đá được nhấn mạnh bởi các đường vân mạnh mẽ và đặc tính mờ đặc biệt, nó tạo ra điểm nhấn thu hút cho không gian kiến trúc dưới bàn tay tài tình của các vị kiến trúc sư đầy sáng tạo. Tuy nhiên, để sử dụng loại vật liệu này một cách hiệu quả nhất đòi hỏi bạn phải có một sự am hiểu sâu sắc về sự hình thành, cấu trúc, thành phần của đá. Bài viết này sẽ mở ra tất cả bí ẩn của loại đá này.
Tên “onyx” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “onyx” có nghĩa là “móng” hoặc “móng tay”, chúng được gọi vậy bắt nguồn từ việc tính chất loại đá này cũng gần giống móng tay của bạn.
Ở Ai Cập cổ đại, onyx (còn gọi là Egyptian alabaster) được đánh giá cao vì tính mờ của nó. Nó được sử dụng để sản xuất vỏ của những chai nước hoa nhỏ, những chiếc bình không tráng men (được gọi là alabastra) hay những chiếc bình canopic và những vật linh thiêng khác. Báo cáo vào năm 77 A.D của Pliny Elder trong cuốn bách khoa toàn thư Naturalis Historia, alabasterum marmor là tên mà người La Mã cổ đại gọi đá vôi khi chúng được khai thác dọc theo thung lũng Nile ở vùng Alabastron gần Thebes, Ai Cập. Thêm vào đó, có sự nhầm lẫn về việc sử dụng thuật ngữ “Marble onyx” bắt nguồn từ việc người ta sử dụng nó như một từ đồng nghĩa với từ “alabaster”, chúng là 2 loại khoáng chất khác nhau rất rõ ràng: 1 là canxi sulfat hydrat và 1 là canxit.
Ngày nay, sự nhầm lẫn lại xảy ra bởi chính tên của loại đá này “onyx”, chúng đề cập đến hai loại đá hoàn toàn khác nhau. Đầu tiên là loại đá silic bao gồm thạch anh tinh thể rất đặc (một loại chalcedony), loại đá này thường là một loại đá quý dùng để làm trang sức và mang tính phong thủy cao. Thứ hai là loại đá Newland Việt Nam đang đề cập ở bài viết này: marble onyx. Đây là loại đá có tính mờ và khả năng đánh bóng cao, đá xuyên sáng onyx bắt nguồn từ các hang đá vôi, nơi hình thành nhũ đá, măng đá hay các loại hình thấy khác để lấp đầy toàn bộ khoảng trống của động. Nó được tạo thành từ sự hòa trộn của nước chảy nhỏ giọt và sự bốc hơi của nước có chứa canxi cacbonat, chúng tích tụ qua hàng ngàn năm. Onyx là một loại đá trầm tích, có thể bao phủ các hóa thạch ở mặt đất. Những con người thời tiền sử đã được tìm thấy trong lớp đá onyx trong hang động. Mặc dù quá trình các giọt nước nhỏ xuống khá mất thời gian nhưng các mỏ đá lớn của đá onyx được hình thành trong một thời gian tương đối ngắn so với niên đại địa chất.
Ở Ai Cập cổ đại, onyx (còn gọi là Egyptian alabaster) được đánh giá cao vì tính mờ của nó. Nó được sử dụng để sản xuất vỏ của những chai nước hoa nhỏ, những chiếc bình không tráng men (được gọi là alabastra) hay những chiếc bình canopic và những vật linh thiêng khác. Báo cáo vào năm 77 A.D của Pliny Elder trong cuốn bách khoa toàn thư Naturalis Historia, alabasterum marmor là tên mà người La Mã cổ đại gọi đá vôi khi chúng được khai thác dọc theo thung lũng Nile ở vùng Alabastron gần Thebes, Ai Cập. Thêm vào đó, có sự nhầm lẫn về việc sử dụng thuật ngữ “Marble onyx” bắt nguồn từ việc người ta sử dụng nó như một từ đồng nghĩa với từ “alabaster”, chúng là 2 loại khoáng chất khác nhau rất rõ ràng: 1 là canxi sulfat hydrat và 1 là canxit.
Ngày nay, sự nhầm lẫn lại xảy ra bởi chính tên của loại đá này “onyx”, chúng đề cập đến hai loại đá hoàn toàn khác nhau. Đầu tiên là loại đá silic bao gồm thạch anh tinh thể rất đặc (một loại chalcedony), loại đá này thường là một loại đá quý dùng để làm trang sức và mang tính phong thủy cao. Thứ hai là loại đá Newland Việt Nam đang đề cập ở bài viết này: marble onyx. Đây là loại đá có tính mờ và khả năng đánh bóng cao, đá xuyên sáng onyx bắt nguồn từ các hang đá vôi, nơi hình thành nhũ đá, măng đá hay các loại hình thấy khác để lấp đầy toàn bộ khoảng trống của động. Nó được tạo thành từ sự hòa trộn của nước chảy nhỏ giọt và sự bốc hơi của nước có chứa canxi cacbonat, chúng tích tụ qua hàng ngàn năm. Onyx là một loại đá trầm tích, có thể bao phủ các hóa thạch ở mặt đất. Những con người thời tiền sử đã được tìm thấy trong lớp đá onyx trong hang động. Mặc dù quá trình các giọt nước nhỏ xuống khá mất thời gian nhưng các mỏ đá lớn của đá onyx được hình thành trong một thời gian tương đối ngắn so với niên đại địa chất.
2. Thành phần hóa học và tính chất vật lí đá xuyên sáng onyx
Đá marble xuyên sáng onyx thường bao gồm các tinh thể canxi từ nhỏ đến dạng hạt và hiếm khi dạng aragonit. Các vi tinh thể liên kết với nhau kết cấu fibrous hoặc lamellar. Chúng sẽ có tính chất mờ và có các màu sắc khác nhau tùy thuộc vào lượng oxit sắt. Màu sắc của onyx thường có màu vàng nâu do có oxit sắt, nhưng cũng có màu trắng, vàng nhạt/đậm, hổ phách, đỏ hay màu xanh đậm. Các dải màu liên kết với nhau từ rõ ràng cho đến mơ hồ. Độ cứng Moh là 3.
3. Địa điểm khai thác
Trữ lượng Onyx thường không chìm sâu dưới lòng đất, chỉ sâu khoảng vài mét. Đá marble hay đá granite có thể ở độ sâu tới vài trăm mét. Việc khai thác đá onyx cũng sử dụng các thiết bị tương tự như khai thác các loại đá vôi khác: máy cắt kim cương được sử dụng nhiều hơn trong thời đại hiện nay hơn là việc khoan hay nổ, tuy nhiên vẫn sử dụng ở các nước kém phát triển. Tỷ lệ sản xuất của một mỏ đá xuyên sáng onyx khá hạn chế, thậm chí còn không thể bằng các mỏ đá marble/granite nhỏ nhất. Vì lí do này nên việc khai thác đá onyx cần phải được lập kế hoạch cụ thể.
Cũng chẳng có lý do gì mà tự dưng mà người ta luôn trầm trồ thán phục trước những gia đình sử dụng đá xuyên sáng onyx để trang trí, cũng không phải những nơi như khách sạn 5 sao, 6 sao hay các công trình thương mại cực kì sang trọng đều có bóng dáng của loại đá này, không chỉ sở hữu vẻ đẹp nghiêng thành khi xuất hiện dưới ánh sáng mà tính chất của đá cũng như sự hình thành của chúng cũng là cả một câu chuyện thú vị.
Comments are closed.